Xuất khẩu chanh leo vượt 200 triệu USD, hướng tới ngành hàng tỷ đô
![]() |
| Xuất khẩu chanh leo tăng trưởng "thần tốc" trong 10 năm. |
Thách thức lớn với giống và chuỗi sản xuất
Tại diễn đàn “Phát triển ngành hàng chanh leo bền vững theo chuỗi liên kết”, các chuyên gia đánh giá chanh leo đang là một trong những cây trồng có tốc độ phát triển nhanh nhất, đóng góp rõ nét vào kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam. Ông Tô Văn Huấn, đại diện Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật nhấn mạnh, xuất khẩu chanh leo đã tăng hơn 10 lần trong một thập kỷ, từ 20 triệu USD năm 2015 lên 222,5 triệu USD năm 2023; đến tháng 10/2025 tiếp tục đạt hơn 202 triệu USD, cho thấy đà tăng ổn định bất chấp biến động của thị trường thế giới.
Tây Nguyên hiện là “thủ phủ” chanh leo, chiếm hơn 86% diện tích và 92,5% sản lượng cả nước, trong khi miền Bắc chiếm khoảng 12,5% diện tích. Cả nước đã công bố lưu hành 43 giống, đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu ngày càng tăng. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai, diện tích chanh leo toàn quốc đạt 12.600 ha, sản lượng trên 178.500 tấn; riêng Tây Nguyên chiếm 88% diện tích. Năm 2025, Gia Lai ước đạt 5.650 ha với sản lượng trên 210.000 tấn, đồng thời đã được cấp 48 mã số vùng trồng và 6 cơ sở đóng gói – nền tảng quan trọng để mở rộng thị trường.
Theo ông Đoàn Ngọc Có, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Gia Lai, việc chanh leo được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc từ tháng 7/2022 trở thành cú hích lớn, góp phần nâng giá trị toàn chuỗi. Tuy nhiên, ngành hàng vẫn đối diện nhiều thách thức: biến đổi khí hậu, sản xuất còn manh mún, xu hướng trồng tự phát, chất lượng giống không đồng đều, cùng các yêu cầu ngày càng khắt khe của EU, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, cảnh báo tốc độ phát triển “nóng” khiến dịch bệnh diễn biến phức tạp, giống thiếu đồng nhất, năng suất nhiều vườn suy giảm. Nếu không sớm chấn chỉnh khâu giống, quy hoạch sản xuất và quản lý dịch hại, ngành chanh leo có nguy cơ lặp lại hệ lụy của giai đoạn phát triển tự phát trước đây. Vấn đề chất lượng giống, theo ông, tiếp tục là nút thắt lớn chưa được xử lý triệt để.
Trên phạm vi toàn cầu, thị trường chanh leo tăng trưởng mạnh nhờ xu hướng tiêu dùng sản phẩm tự nhiên, ít đường, giàu dinh dưỡng và đạt chứng nhận bền vững. Quy mô thị trường được dự báo đạt 4,8 tỷ USD vào năm 2025, trong đó các sản phẩm chế biến và đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn. Việt Nam hiện nằm trong top 10 quốc gia sản xuất và xuất khẩu lớn nhất thế giới, sau Brazil, Colombia, Ecuador và Peru. Dù có lợi thế về chi phí, chất lượng quả và thời vụ, Việt Nam vẫn gặp hạn chế về quy mô sản xuất và nhận diện thương hiệu quốc tế.
Ngành đang phải giải quyết các trở ngại lớn: thiếu nguồn giống sạch bệnh, chuỗi liên kết còn lỏng lẻo, công nghệ chế biến chưa đồng bộ, rào cản kiểm dịch ngày càng siết chặt. Ông Đoàn Ngọc Có cho biết nhiều đơn hàng không thể đáp ứng không phải do thiếu hàng, mà vì thiếu sản phẩm đạt chuẩn. Châu Âu, Nhật Bản yêu cầu tiêu chuẩn GlobalGAP rất cao; thị trường Trung Quốc yêu cầu mã số vùng trồng và kiểm soát nghiêm quy trình sản xuất. Ông Huấn cũng nêu rõ tình trạng liên kết chuỗi còn yếu, công nghệ bảo quản – chế biến sâu chưa theo kịp yêu cầu thị trường, khiến nguồn cung không ổn định.
Đột phá từ liên kết và xây dựng thương hiệu
![]() |
| Việt Nam củng cố vị thế trong Top 10 quốc gia xuất khẩu chanh leo hàng đầu thế giới. Ảnh: Báo Nông nghiệp và Môi trường |
Để hướng tới phát triển bền vững, ngành chanh leo cần tập trung củng cố liên kết chuỗi giá trị và nâng cao chất lượng. Theo Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực giai đoạn 2025–2030, diện tích chanh leo sẽ được duy trì 12.000–15.000 ha, sản lượng 250.000–300.000 tấn, tập trung tại các vùng trọng điểm như Gia Lai, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Quảng Trị, Nghệ An và Sơn La. Ông Tô Văn Huấn khuyến nghị các địa phương rà soát diện tích, hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với hạ tầng và chế biến, kiểm soát mở rộng tự phát, đồng thời khuyến khích hợp tác xã liên kết doanh nghiệp sản xuất theo hợp đồng và thực hành an toàn có truy xuất nguồn gốc.
Liên kết chuỗi giá trị được xem là nhân tố quyết định, đặc biệt là mô hình “doanh nghiệp – hợp tác xã – nông dân”, tiến tới mô hình “5 nhà”: Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân và ngân hàng. Ông Đoàn Ngọc Có nhận định liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân là chìa khóa nâng sức cạnh tranh. Hiện nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu liên kết với hợp tác xã để hình thành chuỗi sản xuất – chế biến – tiêu thụ khép kín, đáp ứng tiêu chuẩn mã số vùng trồng và yêu cầu chế biến sâu.
Các giải pháp chủ đạo gồm: quy hoạch vùng nguyên liệu đạt chuẩn; kiểm soát nguồn gốc giống; chuẩn hóa quy trình canh tác theo VietGAP/GlobalGAP; ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý; đầu tư công nghệ chế biến sâu; xây dựng và quảng bá thương hiệu chanh leo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Về khâu giống, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật, đề xuất sớm xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia cho giống chanh leo sạch bệnh, tăng cường quản lý giống thương mại và áp dụng hệ thống nhà lưới 3 cấp trong sản xuất. Ngoài ra, bà khuyến nghị hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn, thống nhất về giống và quy trình kỹ thuật, có sự giám sát và cảnh báo dịch hại từ Viện Bảo vệ thực vật.
Trong bối cảnh này, ngành chăn nuôi cũng đang chuyển dịch theo hướng tương tự. Sau hai năm thực hiện Nghị quyết 18, ngành chăn nuôi tỉnh đã phát triển theo hướng tập trung, quy mô lớn, gắn kết chặt chẽ với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Tổng đàn vật nuôi tăng ổn định, đồng thời kiểm soát tốt dịch tả lợn châu Phi và các dịch bệnh nguy hiểm khác. Tổng đàn lợn đạt 1,4 triệu con (tăng 2,5% so với 2023), gia cầm đạt 28 triệu con (tăng 3,1%), đàn bò đạt 150.000 con. Tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp tăng từ 38,5% năm 2023 lên 40,2% năm 2025. Tuy vậy, ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn: ô nhiễm môi trường tại các khu dân cư; hạ tầng giao thông, điện, nước ở vùng chăn nuôi chưa đồng bộ; chi phí đầu vào tăng cao; thị trường tiêu thụ chủ yếu nội tỉnh và phụ thuộc kênh truyền thống.
Theo ông Đặng Văn Đạt, Phó Giám đốc Sở Công Thương, số lượng doanh nghiệp chế biến sâu quy mô lớn còn ít, chưa đủ năng lực dẫn dắt thị trường. Để phát triển bền vững, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Thành yêu cầu đẩy mạnh thu hút đầu tư vào chế biến sâu và logistics; hoàn thiện hạ tầng vùng chăn nuôi; siết quản lý giống và thức ăn chăn nuôi. Mục tiêu đến năm 2030 là tỷ trọng chăn nuôi đạt 45%, 70% sản lượng tiêu thụ qua chuỗi liên kết và 60% sản phẩm được chế biến sâu. Ông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh mỗi nông dân và hợp tác xã cần học cách “sống chung với cây chanh leo” để chủ động thích ứng và đồng hành cùng doanh nghiệp.
Tin khác
Senegal tạm dừng nhập khẩu gạo để ưu tiên tiêu thụ hàng nội địa
Xuất khẩu rau quả bứt phá, 11 tháng đã vượt thành tích cả năm 2024 gần 640 triệu USD
Hà Nội chủ động nguồn hàng Tết Bính Ngọ 2026: Tăng dự trữ, kiểm soát giá và siết chặt thị trường
Xuất khẩu ghẹ Việt Nam tăng tốc: Cơ hội mở rộng thị trường và nâng giá trị sản phẩm
CPI tháng 11 tăng 0,45%: Giá thực phẩm, giao thông và dịch vụ cá nhân dẫn dắt đà tăng
Sầu riêng Việt Nam đối mặt nguy cơ mất lợi thế vì tình trạng mua bán mã số vùng trồng
Trung Quốc tăng mạnh nhập khẩu: Hạt điều Việt Nam lên vị thế mới trên thị trường tỉ dân
Nhiều động lực để cá ngừ Việt Nam rộng cửa vào thị trường Hà Lan
Việt Nam áp dụng ưu đãi thuế đặc biệt cho 3 nhóm hàng nhập khẩu từ Lào

